Làm thế nào để xác định chính xác chiều dài làm việc trong các ca điều trị nội nha? Bác sĩ có thể tham khảo các phương pháp trong bài viết dưới đây.
1. Phương pháp chụp X-quang
X-quang là công cụ không thể thiếu trong quá trình chẩn đoán. Điều trị và đánh giá sau điều trị nội nha. Chụp X-quang có thể hình dung được hình dạng răng và cấu trúc quanh chóp trước khi điều trị.
Xác định chiều dài làm việc bằng phương pháp X-quang theo mô tả của Ingle
– Ước lượng chiều dài làm việc bằng cách đo trên một phim gốc răng chụp đúng đầu tiên.
– Đặt một cây trâm size 15 hoặc lớn hơn với chiều dài làm việc đã ước lượng ở trên và chụp một phim X-quang thứ 2.
– Nếu đầu của cây trâm nằm trong 1mm xung quanh vị trí lý tưởng thì chiều dài nói trên có thể chấp nhận được và được xem là chiều dài của răng.
– Nếu như đầu trâm chênh lệch 2mm hoặc hơn thì cần đặt lại trâm và chụp lại một phim khác để xác định lại chiều dài làm việc.
Một số lưu ý
– Phương pháp chụp X-quang thường cho kết quả có thể chấp nhận được nếu tủy răng bị viêm nhưng vẫn còn sống.
– Trong trường hợp hoại tử tủy. Đặc biệt là có sự hiện diện của thấu quang quanh chóp rõ rệt. Hoặc khi bệnh nhân bị đau thì tính chính xác của phương pháp này còn gây nhiều tranh cãi.
– Mức độ thành cồn phụ thuộc vào 2 yếu tố:
- Độ chính xác của phim.
- Đảm bảo trâm không di chuyển trong quá trình chụp.
– X-quang kỹ thuật số có nhiều ưu điểm hơn X-quang truyền thống.
– Trong các nghiên cứu so sánh giữa kỹ thuật chụp phim song song và kỹ thuật chụp phim phân giác, các tác giả nhận thấy rằng:
- Kỹ thuật phim song song sẽ cho kết quả đo lớn hơn kết quả thực tế. Nếu sử dụng phương pháp chụp ảnh này thì nên sử dụng thiết bị ghép nối song song. Sao cho phim trước điều trị và phim sau cấy ghép giống nhau. Nhằm mang lại kết quả đo chính xác hơn.
- Kỹ thuật chụp phim phân giác: Khoảng cách từ trâm trên phim đến chóp răng sẽ ngắn hơn 0,7mm so với vị trí giải phẫu thực tế của trâm.
Một số nhược điểm của phương pháp chụp X-quang
– Bệnh nhân phải tiếp xúc với bức xạ.
– Cung cấp hình ảnh hai chiều cho cấu trúc có hình dạng ba chiều trong không gian.
– Không phân biệt được các vị trí lỗ chóp – lỗ thắt chóp – chóp răng trên X-quang.
– Nhiều cấu trúc giải phẫu có thể chồng lên nhau.
– Những bệnh lý làm thay đổi cấu trúc giải phẫu chóp răng và độ cản quang làm cho việc xác định chiều dài làm việc gặp khó khăn.
– Đòi hỏi kỹ thuật viên X-quang phải có kinh nghiệm và kỹ năng nhất định.
Một số lưu ý trong kỹ thuật chụp X-quang
– Khi đầu ống tia X di chuyển theo bất kỳ hướng nào. Các trâm và cấu trúc giải phẫu nằm bên trong cũng sẽ di chuyển cùng hướng với đầu ống. Còn các cấu trúc bên ngoài sẽ di chuyển theo hướng ngược lại.
– Trong hầu hết các trường hợp. Di chuyển đầu chụp 1 góc 20 – 30 độ sẽ giúp thấy được các cấu trúc giải phẫu bị che khuất. Quy luật này đúng nếu áp dụng trên mặt phẳng dọc hoặc mặt phẳng ngang.
2. Phương pháp áp dụng máy định vị lỗ chóp điện tử
– Phương pháp này đã được sử dụng hơn 40 năm qua.
– Gần đây, các thiết bị hoạt động dựa vào trở kháng và tần số. cho độ chính xác lên tới 90% trong phạm vi sai số 0.5mm.
– Máy định vị chóp có thể hỗ trợ X-quang khi chóp răng bị các cấu trúc giải phẫu khác che khuất. Phát hiện lỗ thủng chân răng. gãy chân răng, vết nứt. nội tiêu hoặc ngoại tiêu.
3. Phương pháp sử dụng côn giấy
– Áp dụng để xác định điểm cuối cùng nhất của ống tủy nếu như ống tủy khô, không còn dịch. Các mô bị viêm sẽ làm ẩm đầu của côn giấy tại vị trí đổ ra của ống tủy.
– Nếu ống tủy chảy máu nhiều hoặc chất lượng côn giấy không tốt thì sẽ không cung cấp được vị trí thắt chóp chính xác.
– Phương pháp này chủ yếu dựa trên kinh nghiệm. Không có bằng chứng khoa học nào chứng minh tính chính xác.
4. Phương pháp sử dụng cảm giác tay
– Kỹ thuật này mang tính chủ quan. Việc cảm giác rằng cây trâm dừng di chuyển có thể không xác định đúng vị trí thắt chóp.
– Hạn chế của phương pháp:
- Bất thường về hình thái, loại răng và tuổi của bệnh nhân.
- Tiêu vùng chóp do bệnh lý hoặc lỗ chóp rộng ở răng chưa trưởng thành.
– Kỹ thuật dùng cảm giác tay được sử dụng hữu ích trong việc quyết định vị trí điểm thắt chóp.
5. Phương pháp sử dụng cảm giác đau
– Đây là phương pháp cũ nhất được sử dụng để xác định chiều dài làm việc.
– Kỹ thuật này cũng hoàn toàn chủ quan chủ quan. Do tùy thuộc vào ngưỡng chịu đau khác nhau của mỗi người.
– Không thể ứng dụng cách này khi có gây tê lúc điều trị.
– Phương pháp này hiện nay không còn được sử dụng trong ngành nha.