Có nhiều kỹ thuật được thực hiện để che phủ chân răng bị lộ. Lựa chọn kỹ thuật nào hoàn toàn phụ thuộc vào việc. Đánh giá chính xác mức độ và quy mô của phần chân răng bị lộ (Theo phân loại Miller). Và hình thái mô nha chu (theo Mynarrd & Wilson).
1. Kỹ thuật ghép nướu dùng vạt trượt
1.1. Chỉ định
- Trụt nướu khu trú một răng
- Bề mặt hẹp và không cao
- Chiều cao và bề dày nướu đầy đủ
1.2. Các kỹ thuật phẫu thuật
Vạt trượt sang bên
Kỹ thuật vạt hai gai nướu
Cohen và Ross là hai tác giả đề xuất kỹ thuật dùng hai gai nướu. Của 2 răng kế cận vùng trụt nướu để che phủ phần chân răng bị lộ riêng lẻ. Kỹ thuật này ít có nguy cơ hoại tử và khâu vạt dễ dàng. Vì gai nướu dày và rộng hơn nướu mặt ngoài của vùng chân răng bị lộ.
Chống chỉ định cho những trường hợp nướu mặt ngoài răng trụt nướu hoặc các răng kế cận có túi nha chu.
2. Kỹ thuật ghép nướu rời (biểu mô và mô liên kết)
2.1. Chỉ định
- Trụt nướu một hay nhiêu răng.
- Chiều cao và bề dày nướu sừng hóa không đủ.
- Chiều cao và bề rộng phần chân răng bị lộ không lớn.
2.2. Kỹ thuật Ghép nướu rời tự thân
Áp dụng để tăng chiều cao nướu sừng hóa. Không chỉ định để che phủ chân răng. Khi cần thiết chỉ định. Kỹ thuật này chỉ áp dụng khi chân răng chỉ lộ 3mm chiều cao và chiều rộng. Chỉ thực hiện cho các răng sau vì lý do:
- Ở vùng khẩu cái phải lấy mảnh ghép cả biểu mô và mô liên kết nên để lại vết thương rộng.
- Nguy cơ hoại tử mảnh ghép cao hơn các kỹ thuật khác vì nuôi dưỡng kém.
- Đôi khi niêm mạc khẩu cái không đủ để lấy mảnh ghép có bề dày từ 1,5 – 2mm.
- Sau khi lành thương kém thẩm mỹ. Vì khó trùng màu với vùng nhận ghép.
3. Ghép mô liên kết chôn vùi
3.1. Chỉ định
- Trụt nướu ở một hay nhiều răng.
- Có bề mặt chân răng lộ nhiều (cao và rộng)
3.2. Kỹ thuật ghép mô liên kết chôn vùi
4. Các kỹ thuật khác
Kỹ thuật Langer & Langer biến đổi
Kỹ thuật Langer & Langer biến đổi là chỗ đường rạch đứng (rạch dọc) làm giảm đi rất nhiều mạch máu nuôi dưỡng vạt. Từ điểm này, vạt bao (vạt biến đổi) được lật. Không có đường giảm căng (đường rạch đứng). Bruno đề nghị thêm đường rạch ngang cắt tách vạt bán phần ở vùng gai nướu từ phía gần đến phía xa. Trong kỹ thuật Langer & Langer biến đổi. Như vậy tuần hoàn sẽ dồi dào hơn. Lành thương nhanh hơn. Kỹ thuật này không để lại sẹo do các đường rạch dọc.
Ghép mô liên kết với vạch bao
Đây là loại vạt bán phần (vạt mỏng) được sửa soạn bằng cách cắt tách trong mô liên kết lân cận mà bắt đầu là từ đáy khe nướu. Không có đường rạch ngang cũng không có đường rạch đứng.
Mảnh ghép mô liên kết được lấy từ khẩu cái. Luồn vào vùng nhận dưới vạt bao. Sau đó cố định mảnh ghép (bằng 1 giọt keo cyanoacrylate nhanh hơn khâu). Kỹ thuật này có nhiều ưu điểm vì nó đơn giản. Ít xâm lấn và lành thương thẩm mỹ hơn vì các gai nướu đã được bảo tồn.
Ghép mô liên kết dưới vạt có cuống
Ghép mô liên kết có thể thực hiện dưới vạt có cuống như: vạt hình thang. vạt di chuyển sang bên. Hoặc vạt 2 gai nướu.
Thuận lợi lớn nhất của kỹ thuật này là che phủ được mảnh ghép liên kết. Đặt lên phần chân răng bị lộ không óc tuần hoàn nuôi dưỡng. Nó còn tăng chiều cao nướu sừng hóa tuy có khó khăn.
Kỹ thuật RTG
Kỹ thuật tái tạo mô có hướng dẫn được áp dụng để tái lập một bám dính mới liên kết. Ngăn chặn không cho hình thành một bám dính mới. Biểu mô kéo dài là một bám dính mới không bền vững. Kỹ thuật này cũng nhắm đến điều trị trụt nướu lộ chân răng.